Trong 20 năm qua, với sự ủng hộ và hướng dẫn kịp thời của Chính phủ và các Bộ, ngành Trung ương; dưới sự quan tâm, lãnh đạo và chỉ đạo sát sao của Tỉnh uỷ, HĐND và UBND tỉnh; toàn thể cán bộ, công chức, viên chức Ban quản lý các KCN Bắc Ninh đã phát huy tối đa tinh thần trách nhiệm và sáng tạo trong thực hiện nhiệm vụ, xây dựng Ban quản lý các KCN Bắc Ninh thành một tập thể vững mạnh với nhiều thành tích đáng ghi nhận, tự hào, thể hiện cụ thể trên các mặt công tác sau:
1. Công tác quản lý quy hoạch xây dựng trong
các KCN được thực hiện theo đúng trình tự, quy định và đáp ứng yêu cầu của các
nhà đầu tư và định hướng phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh
Tháng 12/2000, KCN Tiên Sơn - KCN tập trung đầu tiên của tỉnh được
khởi công xây dựng. Để nâng cao hiệu
quả sử dụng đất tại các KCN, Ban quản lý các KCN Bắc Ninh đã tham mưu cho UBND
tỉnh lập Đề án “Điều chỉnh Quy hoạch phát triển các KCN tỉnh Bắc Ninh đến năm
2015 định hướng đến năm 2020” và được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Văn bản
số 1511/TTg-KTN ngày 20/8/2014. Theo đó, Bắc Ninh hiện có 16 KCN tập trung được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt điều chỉnh, bổ sung với tổng
diện tích quy hoạch 6.397,68ha. Có
11 KCN được cấp Giấy chứng nhận đầu tư và Quyết định thành lập (gồm 14 dự án
đầu tư xây dựng hạ tầng KCN). 10 KCN đã đi vào hoạt động (diện tích quy hoạch xây dựng KCN thực tế
đã thực hiện 3.681,94ha; diện tích đất công nghiệp cho thuê 2.609,4ha). Tỷ lệ lấp đầy trên diện tích đất quy hoạch đạt 63,61%, trên diện tích đất thu hồi 87,96%. Vốn đầu tư hạ tầng đăng ký 2.811.08 triệu
USD (dự án FDI với vốn đăng ký 2.738,4 triệu USD, dự án trong nước với vốn đăng
ký 72,65 triệu USD).
Trật tự xây dựng trong các KCN ngày một đi vào nề
nếp. Việc quy hoạch và xây dựng các KCN Bắc Ninh hợp lý kết hợp với công tác
quản lý xây dựng theo quy hoạch chi tiết một cách chặt chẽ, bài bản đã góp phần
vào thành công trong việc thu hút đầu tư vào các KCN. Với việc thiết lập mô
hình KCN, đô thị đã góp phần hình thành các khu đô thị mới gắn với phát triển
cụm công nghiệp, làng nghề và kiến tạo bộ mặt nông thôn mới. Tạo việc làm,
chuyển dịch cơ cấu lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Phát
triển đồng bộ hạ tầng kỹ thuật KCN với hạ tầng xã hội (hệ thống điện, nước,
thông tin liên lạc, nhà ở công nhân, thiết chế văn hóa, các dịch vụ như ngân
hàng bảo hiểm,...), đảm bảo cuộc sống của người lao động, ổn định an sinh xã
hội. Góp phần tạo lập và phân bố không gian kinh tế, tạo sự phát triển hài hoà
giữa các khu vực trong tỉnh, là cơ sở để Bắc Ninh hội nhập và phát triển một
cách bền vững.
2. Các KCN thu hút được
nguồn vốn đầu tư lớn, nhất là đầu tư trực tiếp nước ngoài, là tiền đề quan
trọng giúp Bắc Ninh giữ vững nhịp độ tăng trưởng, tiến tới mục tiêu phấn đấu
trở thành thành phố trực thuộc Trung ương vào năm 2022
Những năm đầu xây dựng KCN, tiến hành trải thảm đỏ để thu
hút đầu tư. nên chủ yếu là những dự án nhỏ, dự án trong nước, có quy
mô vốn thấp, tập trung chủ yếu vào các ngành: chế biến nông sản thực phẩm,
sản xuất hàng tiêu dùng, vật liệu xây dựng cao cấp; Riêng công nghiệp điện tử
chỉ có 2 dự án Công ty Canon chiếm 14% tổng số vốn đầu tư vào các KCN Bắc Ninh
(130 triệu USD/896 triệu USD). Giai đoạn này suất đầu tư chỉ là 1-2
triệu USD/ha và khoảng 3 triệu USD/dự án.
Thực hiện chỉ đạo của UBND tỉnh
và các Bộ, ngành Trung ương, Ban quản lý các KCN Bắc Ninh đã chủ động tham mưu
UBND tỉnh thực hiện tốt công tác xúc tiến, thu hút được nhiều dự án của các tập đoàn
lớn, có thương hiệu nổi tiếng đến từ 33 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới đầu
tư vào các KCN Bắc Ninh. Lũy kế đến hết tháng 7/2018, các KCN Bắc Ninh đã thu hút 1.278 dự án đầu tư
với tổng vốn đầu tư đăng ký trên 17,43 tỷ USD, trong đó có 848 dự án FDI với
tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 15,4 tỷ USD; 430 dự án trong nước với tổng vốn đầu
tư đăng ký 2,03 tỷ USD. Các dự án đều sử dụng máy móc, thiết bị thế
hệ mới, công nghệ sản xuất tiên tiến, sản xuất các sản phẩm sạch, không phát
sinh nhiều yếu tố ảnh hưởng đến môi trường. Vốn đầu tư cho máy móc, thiết bị và
công nghệ sản xuất (bao gồm cả chuyển giao công nghệ) của các dự án FDI trong
giai đoạn này chiếm trên 60% tổng vốn đầu tư đăng ký của các dự án. Đây là nhân
tố quan trọng thúc đẩy gia tăng hàm lượng giá trị công nghệ trong giá trị của
sản phẩm, giảm thiểu các yếu tố ảnh hưởng đến môi trường, nâng cao năng lực
cạnh tranh của sản phẩm, từ đó nâng cao giá trị sản xuất công nghiệp, giá trị
kim ngạch xuất khẩu tại các KCN Bắc Ninh.
Kết quả thu hút đầu tư vào các
KCN của tỉnh trong 20 năm qua khẳng định môi trường đầu tư thông thoáng, hiện
đại; xây dựng được hình ảnh đặc trưng của mỗi KCN, kéo theo chuỗi các nhà đầu
tư vệ tinh khác, tạo sức mạnh lan tỏa, hình thành KCN chuyên ngành và ngành công
nghiệp hỗ trợ. Góp phần đưa Bắc Ninh trở thành một trong những tỉnh dẫn đầu cả
nước về thu hút đầu tư, nhất là đầu tư trực tiếp nước ngoài (riêng năm 2017,
Bắc Ninh là địa phương đứng thứ hai về thu hút vốn FDI). Đây là tiền đề quan
trọng giúp tỉnh giữ vững nhịp độ tăng trưởng, tạo bước đột phá trong phát triển
kinh tế, thực hiện các chính sách an sinh xã hội trên địa bàn, tiến tới mục
tiêu phấn đấu trở thành thành phố trực thuộc Trung ương vào năm 2022.
3. Hoạt động của các doanh nghiệp KCN phát triển mạnh, góp phần quan trọng vào thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của tỉnh
Các KCN Bắc Ninh hiện có 887 dự án đi vào hoạt động, tạo ra giá trị sản xuất công nghiệp lớn (chiếm trên 70% giá trị sản xuất công nghiệp toàn tỉnh); Giá trị xuất khẩu luôn đạt tốc độ tăng trưởng cao, ổn định (trên 90% giá trị xuất khẩu toàn tỉnh). Riêng năm 2017, giá trị sản xuất công
nghiệp của các doanh nghiệp KCN (không tính công ty ĐTPTHT) đạt 664.674 tỷ
đồng; Giá trị xuất khẩu đạt 28,4 tỷ USD; Giá trị nhập khẩu 23,5 tỷ USD; Nộp
ngân sách đạt 8.700 tỷ đồng. Trong 6 tháng đầu năm 2018, giá trị sản xuất công
nghiệp đạt 500.000 tỷ đồng; Giá trị xuất khẩu đạt 19 tỷ USD; Giá trị nhập khẩu
11 tỷ USD; Nộp ngân sách đạt 6.000 tỷ đồng. Sự phát triển của các KCN là nhân tố chính đóng
góp vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp của tỉnh;
Góp phần thúc
đẩy mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế với các quốc gia trong khu vực và trên thế
giới, đưa nền kinh tế của tỉnh tham gia hội nhập vào nền kinh tế quốc tế.
Nếu như số lượng lao động làm
việc tại các doanh nghiệp trong KCN sau 15 năm xây dựng và phát triển các KCN là
144.740 người, thì chỉ trong vòng 5 năm (từ năm 2013 đến nay), con số này đã tăng gần gấp
đôi, lên 282.000 lao động; Trong đó lao động nữ chiếm 65%; lao động địa phương
chiếm 26%; lao động nước ngoài khoảng 1,42% tổng số lao động. Thu nhập bình
quân của lao động gián tiếp 6,8 triệu đồng/người/tháng. Thu nhập bình quân của
người lao động trực tiếp 5,7 triệu đồng/người/tháng.
4. Ban Quản lý các KCN Bắc Ninh luôn đồng hành
cùng doanh nghiệp, thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước sau đầu tư như:
- Thường xuyên rà soát tình hình triển khai thực hiện dự án và nắm bắt tình
hình hoạt động sản xuất kinh doanh của nhà đầu tư/doanh nghiệp, kịp thời hỗ
trợ, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp KCN, nhất là các vấn đề về
cấp điện, cấp nước, thuê đất, ưu đãi đầu tư,... Tính đến hết tháng
7/2018, Ban quản lý đã rà soát, tiến hành chấm dứt hoạt động dự án đầu tư và
thu hồi 194 dự án với tổng vốn đầu tư đăng ký 831,7 triệu USD.
- Tham mưu UBND tỉnh ký Biên bản uỷ quyền cho Ban v/v thực hiện một số
nhiệm vụ quản lý Nhà nước về lao động trong các KCN trên địa bàn tỉnh; Phối hợp
với Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh ký Quy chế phối hợp về quản lý Nhà
nước về lao động trong các KCN. Hướng dẫn các doanh nghiệp hoàn thiện các thủ
tục theo quy định của pháp luật về lao động. Thường xuyên tổ chức các buổi
tuyên truyền phố biến chính sách pháp luật về lao động. Phối hợp với Công đoàn
các KCN Bắc Ninh phát triển các tổ chức Công đoàn cơ sở của các Doanh nghiệp
KCN, giám sát việc thực hiện Thoả ước lao động giữa Chủ doanh nghiệp và người
lao động; hỗ trợ doanh nghiệp giải quyết kịp thời những mâu thuẫn phát sinh
trong quá trình sử dụng lao động. Tổ chức công đoàn cơ sở - cầu nối giữa người
lao động với chủ doanh nghiệp phát triển mạnh tại các KCN. Số lượng ban đầu gồm
05 Công đoàn cơ sở với 1.725 đoàn viên công đoàn. Hiện 95% số doanh
nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định có đủ điều kiện thành lập tổ chức
công đoàn. Tính đến nay có tổng số 483 công đoàn cơ sở tại các KCN với 113.991
đoàn viên. Công đoàn thực sự trở thành chỗ dựa tin cậy của công nhân lao động
và chủ doanh nghiệp, thực hiện công tác chăm lo đời sống, bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp, chính đáng của người lao động, góp phần tạo mối quan hệ lao động
hài hoà, tiến bộ và ổn định trong các doanh nghiệp KCN.
- Ban đã xây dựng và thực hiện Quy chế phối hợp quản lý và bảo vệ môi trường
trong KCN với Sở Tài nguyên và Môi trường, Công an tỉnh và UBND các huyện,
thành phố, thị xã. Thực hiện quan trắc tổng thể về môi trường đối với các KCN
và doanh nghiệp KCN Bắc Ninh, hướng dẫn, thẩm định và phối hợp thẩm định báo
cáo ĐTM của các doanh nghiệp KCN. Phối hợp với các Sở, ngành liên quan trong
tỉnh và với các công ty đầu tư phát triển hạ tầng KCN thực hiện tuyên truyền
pháp luật về môi trường trong KCN, tiến hành giải quyết các vướng mắc về xả
thải, xử lý nước thải của các doanh nghiệp KCN. Chủ trì, tham gia kiểm tra,
giám sát về môi trường trong các KCN Bắc Ninh. Hiện 7/10 KCN đang hoạt động có nhà máy cung cấp
nước sạch hoàn chỉnh. 9/10 KCN có hệ thống xử lý nước thải tập trung; 1 KCN
đang hoàn thiện hồ sơ, thủ tục để khởi công xây dựng. Có 8 KCN có hệ thống xử
lý nước thải tập trung đã lắp đặt trạm quan trắc tự động.
- Cùng với việc xây dựng và tổ chức thực hiện Kế
hoạch thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp hàng năm, Ban Quản lý các KCN thực
hiện tốt việc tiếp công dân, giải quyết đơn thư, kiến nghị của doanh nghiệp,
người lao động trong KCN không để tồn đọng kéo dài. Thực hiện tốt công tác
tuyên truyền, phổ biến pháp luật phòng, chống tham nhũng đi đôi với thực hành
tiết kiệm, chống lãng phí đối với cán bộ công chức, viên chức. Minh bạch hoá
các quy trình, thủ tục hành chính, phát huy tốt hoạt động của bộ phận "một
cửa". Ban thanh tra nhân dân thường xuyên giám sát, kiểm tra đảm bảo sớm
phát hiện biểu hiện tiêu cực, tham nhũng để có biện pháp ngăn chặn kịp thời. Xây
dựng quy chế phối hợp hoạt động với nhiều Sở, Ban, ngành trong tỉnh nhằm thực
hiện tốt công tác quản lý và phối hợp với các cơ quan liên quan để giải quyết
các vụ việc khiếu nại, tố cáo xảy ra liên quan đến các KCN.
- Ban quản lý các KCN Bắc Ninh đã phối hợp với các cơ quan chức năng như
Công an tỉnh (ký và thực hiện Quy chế
phối hợp từ năm 2002), công an huyện, thị, thành phố, các đồn công an KCN
và các công ty hạ tầng KCN đảm bảo tốt an ninh trật tự, an toàn trong các KCN,
không để xảy ra vụ việc nghiêm trọng. Đồng thời, thường xuyên hướng dẫn doanh
nghiệp KCN nghiêm chỉnh chấp hành các quy định của pháp luật về PCCC. Phối hợp
với cơ quan chức năng kiểm tra, hướng dẫn, đôn đốc doanh nghiệp thực hiện
nghiêm túc công tác PCCC theo quy định.
5. Một số nội dung khác
- Ban Quản lý các KCN Bắc Ninh đã chỉ đạo các đơn vị sự nghiệp trực
thuộc triển khai hiệu quả các hoạt động dịch vụ trong và ngoài KCN; Đẩy mạnh thực hiện công tác cải cách hành
chính, ứng dụng KHCN trong hoạt động quản lý, điều hành; Thực hiện các đề tài khoa học liên quan đến hoạt động của các
doanh nghiệp KCN Bắc Ninh và các đề tài có tính ứng dụng cao trong hoạt động
của cơ quan, đơn vị.
- Thực hiện nghiêm túc các quy định hiện hành của pháp luật trong các lĩnh
vực hoạt động; Tổ chức thực
hiện có hiệu quả các phong trào thi đua hàng năm; Quán triệt cán bộ, công chức, viên chức và người
lao động cơ quan tích cực học tập các chỉ thị, nghị quyết, kết luận của Đảng,
học tập tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, nghiêm túc thực hiện chủ
trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Quá trình xây dựng và phát triển các KCN Bắc Ninh đã đem lại những hiệu
quả thiết thực trong việc thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát
triển bền vững. Bên cạnh đó vẫn còn một số khó khăn, hạn chế cần khắc phục
trong thời gian tới như:
Thu hút đầu tư nói chung và FDI nói riêng hiện
đang tập trung tại một số KCN đã phát triển, các KCN mới hình thành chưa thu
hút được nhiều hoặc chưa thu hút được đầu tư dẫn đến sự phát triển không đồng
đều của các KCN và các địa phương có KCN. Các kênh xúc tiến đầu tư chưa được đa dạng, chất lượng chưa cao; Mối
liên kết kinh tế còn trong phạm vi hẹp, các doanh nghiệp FDI chưa thực sự là
đòn bảy thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp trong nước đặc biệt là các
doanh nghiệp địa phương. Công tác ban hành pháp luật còn chưa đồng bộ, chồng
chéo dẫn đến khó khăn trong thực thi nhiệm vụ; Chế tài về chế độ báo cáo của
doanh nghiệp KCN chưa đủ mạnh, gây khó khăn trong việc nâng cao hiệu lực quản
lý nhà nước đối với các doanh nghiệp KCN. Việc thực hiện Quy chế phối hợp trong
công tác quản lý Nhà nước đối với KCN theo Quyết định của UBND tỉnh có lúc còn
hạn chế, dẫn đến tình trạng Ban quản lý khó nắm bắt, theo dõi được hoạt động
của các doanh nghiệp KCN trong một số lĩnh vực. Hoạt động dịch vụ của các đơn vị sự nghiệp trực
thuộc còn gặp khó khăn như: thị phần bị chia nhỏ do có nhiều nhà cung ứng dịch
vụ; ...
Kính thưa quý vị đại biểu, thưa toàn thể hội nghị!
Nhằm tiếp
tục thúc đẩy sự phát triển bền vững của các KCN, góp phần đẩy nhanh quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh, đưa Bắc
Ninh trở thành thành phố trực thuộc Trung ương vào năm 2022; Ban quản lý các KCN Bắc Ninh tập trung thực hiện và hoàn thành tốt các
nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu sau:
1.
Kiện toàn cơ cấu tổ chức bộ máy và hoạt động của cơ quan theo quy định tại Nghị
định 82/2018/NĐ-CP ngày 22/5/2018 của Chính phủ. Thực hiện tốt công tác cán bộ,
tài chính, tiền lương, công tác thi đua, khen thưởng. Chú trọng công tác đào
tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ,... cho đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức cơ quan.
2. Đẩy mạnh công tác cải cách hành chính, nhất là cải
cách thủ tục hành chính, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi. Duy trì hoạt động
hiệu quả của bộ phận "một cửa" tại Trung tâm Hành chính công tỉnh. Duy
trì vận hành Hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO TCVN 9001:2008
tiến tới nâng cấp lên tiêu chuẩn ISO 9001:2015. Tăng cường ứng dụng công nghệ
thông tin trong thực hiện nhiệm vụ. Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng
trong thực hiện công tác quản lý nhà nước đối với các KCN.
3. Tăng cường công tác vận động xúc tiến đầu
tư vào KCN. Tạo sự phối hợp đồng bộ, chặt chẽ giữa các ngành, các địa phương, chủ động
trong thực hiện công tác xúc tiến đầu tư. Tiếp tục đổi mới nội dung, đa dạng hình
thức và xác định lĩnh vực mũi nhọn để thực hiện xúc tiến đầu tư.
4. Chỉ đạo các công ty đầu tư phát
triển hạ tầng KCN đẩy nhanh việc đầu tư, xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng KCN. Chú
trọng công tác quản lý quy hoạch và xây dựng. Thường xuyên rà soát, hướng dẫn
các doanh nghiệp KCN thực hiện đúng các quy định về quy hoạch và xây dựng.
5. Thực hiện tốt việc nắm bắt tình hình và hỗ trợ giải quyết khó
khăn, vướng mắc của các doanh nghiệp KCN trong quá trình hoạt động sản xuất
kinh doanh, nhằm hoàn thành và hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu từng năm, góp
phần hoàn thành các mục tiêu Đại hội Đảng bộ các cấp. Rà soát các dự án sau cấp
phép đầu tư và kiên quyết chấm dứt hoạt động dự án, thu hồi giấy chứng nhận đầu
tư đối với các trường hợp cần thiết.
6. Tăng cường công tác quản lý môi
trường trong các KCN; Chỉ đạo triển khai đồng bộ đầu tư xây dựng trạm xử lý nước thải, công trình xử lý rác thải công nghiệp; xây dựng hệ thống quan trắc môi
trường. Tăng cường giám sát, yêu cầu các doanh nghiệp nghiêm túc thực hiện các quy định về bảo vệ môi trường trong KCN.
Phấn đấu 100% KCN đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu
chuẩn môi trường.
7. Xây dựng và tổ chức thực hiện kế
hoạch kiểm tra đối với doanh nghiệp KCN, tránh chồng chéo và đảm bảo hiệu quả.
Tham gia các đoàn thanh tra, kiểm tra của các Bộ ngành Trung ương và của tỉnh.
8. Thực hiện tốt công tác quản lý nhà
nước về lao động. Phối hợp phát triển đoàn viên và thành lập tổ chức công đoàn cơ sở trong
các doanh nghiệp KCN. Đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động trong các KCN.
9. Chủ động phối hợp chặt chẽ trong
công tác bảo đảm an ninh trật tự, an toàn xã hội, PCCC trong các KCN. Tham gia
xây dựng mô hình KCN an toàn về an ninh trật tự, mô hình KCN điển hình tiên
tiến đảm bảo an toàn phòng cháy, chữa cháy trên địa bàn tỉnh.
10. Đổi mới phương thức tổ chức thực
hiện nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả các phong trào thi đua tại cơ quan và
trong các KCN. Góp phần hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị được giao, nâng cao chất
lượng hoạt động của cơ quan, đơn vị, nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp KCN. Đồng thời, thực hiện thắng lợi các nội dung
giao ước thi đua đã ký kết giữa các đơn vị thành viên trong Khối thi đua hàng
năm. Tăng cường phối hợp giữa các đơn vị thành viên trong Khối thi đua QLNN về
KTKT và Khối thi đua Ban quản lý các KCN, KKT các tỉnh đồng bằng Sông Hồng.
11. Thực hiện tốt công tác giáo dục chính
trị tư tưởng, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và rèn luyện lối sống, đạo
đức của cán bộ, công chức, viên chức trong cơ quan, đơn vị. Đẩy mạnh việc học tập
và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh chuyên đề hàng năm gắn
với việc thực hiện các phong trào thi đua. Phát hiện, bồi dưỡng và nhân rộng
các tập thể và cá nhân điển hình tiên tiến trong cơ quan và các doanh nghiệp
KCN nhằm động viên, khuyến khích các tập thể, cá nhân hăng hái thi đua, lao
động.
12. Chỉ đạo đơn vị sự
nghiệp trực thuộc tổ chức cung cấp đa dạng các loại hình dịch vụ trong và ngoài
KCN. Duy trì thực hiện tốt công tác quản lý Nhà nước và các công tác khác nhằm
xây dựng tổ chức Đảng trong sạch, vững mạnh, chính quyền và các tổ chức đoàn
thể vững mạnh xuất sắc, các KCN ngày càng phát triển bền vững. Đời sống vật
chất và tinh thần của cán bộ, công chức, viên chức được nâng cao.
Kính thưa quý vị đại biểu, thưa toàn thể hội nghị!
Trải qua 20 năm từ khi thành lập đến nay, cơ cấu tổ
chức bộ máy của Ban Quản lý các KCN Bắc Ninh dần được hoàn thiện và vận hành
hiệu quả, đội ngũ cán bộ ngày càng lớn mạnh. Trong quá trình hoạt động,
Ban quản lý các KCN Bắc Ninh đã hai lần được tặng Bằng khen của Thủ tướng Chính
phủ, liên tục các năm được tặng Cờ thi đua, Bằng khen của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch
và Đầu tư và Chủ tịch UBND tỉnh. Đặc biệt, tập thể Ban đã vinh dự được Chủ tịch
nước CHXHCN Việt Nam tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Nhất, Nhì, Ba. Đồng
thời, nhiều đơn vị trực thuộc và nhiều cá nhân cán bộ, công chức, viên chức cơ
quan được các cấp, các ngành ghi nhận, biểu dương và khen thưởng. Bên cạnh
những thành tích về chuyên môn, các hoạt động trên các lĩnh vực về Đảng, đoàn
thể cũng được quan tâm sâu sát. Đảng bộ Ban Quản lý hiện có 7 chi bộ với 69
đảng viên, là hạt nhân của khối đoàn kết, nhiều năm liền đạt tổ chức cơ sở đảng
trong sạch, vững mạnh; Tổ chức Công đoàn, Đoàn Thanh niên, Hội Cựu chiến binh
luôn đạt danh hiệu tập thể xuất sắc.
Kính thưa quý vị đại biểu, thưa toàn thể hội nghị!
Ban quản lý các KCN Bắc Ninh xin
trân trọng cảm ơn và mong tiếp tục nhận được sự quan tâm, chỉ đạo sâu sát, kịp
thời của Chính phủ, các Bộ ngành Trung ương, của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh Bắc
Ninh, sự phối hợp chặt chẽ của các Sở, ngành, địa phương, các cơ quan, đơn vị
trên địa bàn tỉnh, sự ủng hộ và hợp tác của cộng đồng các nhà đầu tư, doanh
nghiệp. Đồng thời, trong những năm tiếp theo, Ban Quản lý các KCN Bắc Ninh sẽ
luôn đồng hành cùng các nhà đầu tư, doanh nghiệp, nỗ lực phấn đấu, đoàn kết,
vượt qua khó khăn, thực hiện và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, giữ
vững và phát huy những thành tích đã đạt được trong 20 năm qua.
Xin trân trọng cảm ơn./.
Trên đây là báo cáo tóm tắt tại Hội nghị, tham khảo Báo cáo đầy đủ tại đây