Nâng cao chất lượng nguồn lao động, yếu tố quan trọng
14:47 08/12/2010
10 năm qua (2000 – 2010): các Khu công nghiệp (KCN) tập trung đã đóng góp tích cực vào thành quả phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Bắc Ninh trên các mặt: thu hút đầu tư, tăng trưởng, tạo việc làm, tăng thu nhập cho dân cư, tăng thu ngân sách nhà nước, tạo ra những diện mạo mới cho kinh tế - xã hội của tỉnh.

(Bài tham luận tại Đại hội Đảng bộ Ban quản lý các KCN Bắc Ninh năm 2010)

 

                                                                                       Hoàng Thị Thu Hải - Phòng Quản Lý lao động

Bên cạnh các thành quả đạt được, KCN cũng đã và đang phải đối mặt với những khó khăn, thách thức. Một trong những khó khăn đó là số và chất lượng lao động chưa đáp ứng yêu cầu.  Theo thống kê, hết năm 2009, lao động làm việc trực tiếp tại các KCN là 41.323 người (trong đó: lao động địa phương: 53%; lao động nữ: 62%). Phân loại lao động cho thấy: Đại học, cao đẳng, trung cấp, công nhân kỹ thuật: chiếm 21,7%; lao động phổ thông: 78,3%. Chất lượng lao động trong các KCN Bắc Ninh chưa cao, có xu hướng tăng về số lượng, phải đào tạo lại sau khi đã nhận vào làm việc; số lao động có trình độ, chuyên môn tay nghề ít (21,7%), chủ yếu là lao động ngoại tỉnh.

Có thể nêu khái quát một số nguyên nhân sau:

Thứ nhất, về phía người lao động: ý thức tổ chức kỷ luật, chấp hành luật pháp và tác phong công nghiệp còn kém. Phần lớn người lao động xuất thân từ nông thôn, chưa qua đào tạo chính quy về cách thức làm việc tập trung tại các nhà máy, lối sống và làm việc tự do, chưa định hình về tác phong công nghiệp. Khi gặp một số vướng mắc với doanh nghiệp, một số lao động thường tỏ thái độ bằng những hành động tự phát, tuỳ tiện, không hợp tác như: bỏ làm, khiếu kiện, đình công...

Thứ hai, về phía DN: không ít DN chưa có chiến lược, định hướng cụ thể trong đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng cho lao động, chưa quan tâm đúng mức tới đời sống người lao động…Điều này đã và sẽ tạo nên những ảnh hưởng xấu đến hình ảnh và quá trình phát triển các KCN.

Không thể hội nhập sâu rộng và hoà vào nền kinh tế thế giới, nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm trong nước nếu chúng ta thiếu các sản phẩm công nghiệp có hàm lượng chất xám cao. Hiện nay sản phẩm công nghiệp vẫn còn chủ yếu dựa vào tiềm năng tài nguyên và dựa nhiều trên công nghiệp gia công nên giá trị sản phẩm thường thấp. Bên cạnh đó lao động có chất lượng cao của nước ta vẫn còn là một hạn chế lớn, không có những con người có khả năng, trình độ cao tham gia vào quá trình phát triển công nghiệp, hiển nhiên tốc độ và trình độ phát triển không thể đáp ứng được yêu cầu của thực tế. Vì thế, một KCN muốn phát triển bền vững thì cần phải quan tâm tới yếu tố con người, bởi con người là động lực của sự phát triển. Chất lượng nguồn lao động là một trong những nhân tố quan trọng hàng đầu giúp các KCN phát triển bền vững. Nhìn về KCN Bắc Ninh, chúng ta có thể thấy:

1 - Đối với doanh nghiệp FDI, khó khăn về nguồn lao động có trình độ cao đã xảy ra tại KCN Quế Võ, Yên Phong - nơi có lượng vốn FDI chiếm đa số. 47% lao động ngoại tỉnh nhưng tỉ lệ lao động có chất lượng khá thấp, chủ yếu là bộ máy lãnh đạo, quản lý. Lao động trong vùng rất khó tuyển do có sự phát triển tương đối đồng đều các KCN (đa phần các tỉnh đã có KCN), và không thể có hiện tượng di cư lao động từ các vùng Tây Nguyên, Đông Nam Bộ (vùng chưa có sự phát triển phổ biến các KCN) về vùng Đồng Bằng Sông Hồng bởi do điều kiện vùng, miền, địa lý, khác biệt văn hoá, thu nhập… Do đó, đã có rất nhiều người quan ngại về khả năng hấp thụ vốn FDI nếu không đảm bảo được nguồn lao động đủ cả về số và chất lượng.

2 - Trong bối cảnh các KCN Bắc Ninh mới chỉ có 21,7% lao động qua đào tạo; kinh tế tăng trưởng nhưng năng suất lao động không tăng lên đáng kể, thời gian lao động giữ nguyên, chi phí quản lý và chi phí sản xuất gia tăng (do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu)…sẽ ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp với bạn hàng do giá thành sản phẩm cao. Nếu không đứng vững, không có chiến lược đào tạo nguồn lao động, doanh nghiệp có thể bị loại khỏi cuộc chơi (phá sản) bất cứ lúc nào.

3 – Trong quá trình phát triển các KCN, đến 15/3/2010, Bắc Ninh đã thu hồi 1.579,86 ha đất nông nghiệp. Số lao động nông nghiệp cần phải giải quyết việc làm ngày càng gia tăng. Bên cạnh đó, giải quyết các vấn đề an sinh xã hội, môi trường, dịch vụ quanh KCN…đem lại lợi ích cho cả 3 bên: Nhà nước – Nhân dân – Doanh nghiệp, đòi hỏi khẩn trương phải đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn lao động.

4 - Chất lượng lao động đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, một số doanh nghiệp thường phàn nàn không có đủ lao động lành nghề và lao động có kỹ năng để vận hành, bảo dưỡng thiết bị cũng như quản lý các quy trình tài chính, kinh doanh phức tạp, thậm chí trong tương lai có thể phải nhập khẩu lao động (chuyên gia, kỹ sư)…Vì vậy, giáo dục đào tạo là một yếu tố then chốt nâng cao chất lượng nguồn lao động.

Theo điều tra của VCCI, “nút thắt” là ở tính minh bạch và đào tạo lao động. Kết quả về Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) năm 2009 cho thấy, chỉ cần tăng 1 điểm của chỉ số tính minh bạch trong PCI sẽ giúp tăng 13% số doanh nghiệp trên 1.000 dân, tăng 17% đầu tư bình quân đầu người và 62 triệu đồng lợi nhuận mỗi doanh nghiệp. Tương tự, cải thiện 1 điểm trong chỉ số đào tạo lao động giúp tăng 30% số doanh nghiệp trên 1.000 dân, tăng 47% đầu tư bình quân đầu người và tăng 58 triệu đồng lợi nhuận trên mỗi doanh nghiệp. Cũng theo đánh giá trên, năm 2009, Bắc Ninh xếp thứ 10, đạt 65,70 điểm, được đánh giá trong nhóm “tốt”, nhưng thực tế đang đòi hỏi, đang gây áp lực về việc đào tạo nâng cao chất lượng lao động rất lớn.

Quy hoạch tổng thể phát triển các KCN Bắc Ninh đến năm 2015, định hướng 2020: 15 KCN với tổng diện tích 7.525ha (trong đó diện tích đất KCN là 6.541ha, đất đô thị là 984ha); Dự tính đến 2015: các KCN sẽ nâng tổng vốn đầu tư thứ cấp đạt khoảng 4 tỷ USD, giá trị sản xuất công nghiệp của các doanh nghiệp KCN Bắc Ninh chiếm 65-70% giá trị sản xuất công nghiệp toàn tỉnh, sử dụng 77.000-80.000 lao động. Để các KCN Bắc Ninh phát triển theo hướng bền vững, tạo ra giá trị cao về mặt kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, chúng ta cần xây dựng một số định hướng và giải pháp cơ bản để nâng cao chất lượng nguồn lao động nhằm đi tắt, đón đầu, đáp ứng và phục vụ tốt cho quá trình đầu tư của DN KCN về lâu dài:

* Về định hướng:

- Nâng cao chất lượng nguồn lao động vì chính lợi ích của người lao động (giống như nâng cao chất lượng hàng hóa đặc biệt: là hàng hóa sức lao động) nhằm: người lao động có nhiều lợi thế lựa chọn nơi làm việc, có nhiều cơ hội hưởng lương cao tương xứng chất lượng cống hiến.

- Nâng cao chất lượng nguồn lao động là trách nhiệm của Nhà nước, của tỉnh, bởi: đây là tiền đề để phát triển kinh tế bền vững; là khâu đầu tiên thực hiện hiện đại hóa nền kinh tế; là điều kiện để hòa nhập với nền kinh tế thế giới.

- Nâng cao chất lượng nguồn lao động vừa là yêu cầu của doanh nghiệp, KCN nhưng bản thân cơ quan, doanh nghiệp sử dụng lao động phải có trách nhiệm củng cố, tự nâng cao chất lượng lao động cho người lao động

- Phải xã hội hóa những nội dung cần thiết để nâng cao chất lượng nguồn  lao động: đây là nhiệm vụ của từng người, gia đình, địa phương, xã hội;

- Phải nhìn nhận lại, sắp xếp lại công tác giáo dục và đào tạo: chỉ đào tạo tốt khi có nền giáo dục chuẩn mực, thực chất, tiên tiến; chỉ tự học được khi có kiến thức văn hóa cơ bản.

- Phải giành kinh phí thích đáng cho việc giáo dục, đào tạo

Trên cơ sở quán triệt thực hiện các nguyên tắc:

- Lấy nhu cầu phát triển nguồn lao động làm mục tiêu để đào tạo. Tránh đào tạo theo nhu cầu của cơ sở đào tạo mà không vì yêu cầu sử dụng sau này.

- Phải đào tạo nâng cao chất lượng nguồn lao động trước khi đầu tư xây dựng cơ bản hoặc xây dựng doanh nghiệp trong KCN, tránh bị động.

- Công khai chức danh, vị trí, tiêu chuẩn cho mỗi công việc để mọi phía phấn đấu, đạt chuẩn về chất lượng lao động.

- Mọi xung đột mâu thuẫn giữa người lao động và người sử dụng lao động phải được giải quyết kịp thời theo luật pháp, đảm bảo quyền và nghĩa vụ của mỗi bên.

Và thực hiện một số giải pháp chủ yếu:

1 - Về phía doanh nghiệp:

 Doanh nghiệp phải đóng vai trò chủ động trong việc chuẩn bị nguồn lao động cho mình, trong liên kết với các trường, cơ sở đào tạo. Chính doanh nghiệp mới có đơn hàng cụ thể về lao động cần cho mình.

- Đối với lao động hiện có: có thể thực hiện đào tạo tại chỗ bằng cách sử dụng chuyên gia, kỹ sư giàu kinh nghiệm. Các yêu cầu đào tạo khác như: kỹ năng, tác phong công nghiệp, ngoại ngữ, tin học, hiểu biết về pháp luật, chăm sóc sức khoẻ …. sẽ ký hợp đồng với các trung tâm hoặc tổ chức có chức năng thực hiện lồng ghép với quá trình đào tạo chuyên môn.

- Đối với lao động dự nguồn (thực hiện cùng với quá trình đầu tư xây dựng, mở rộng nhà máy; hoặc vị trí công việc sẽ sử dụng trong tương lai): có thể ký kết hợp đồng với các trường đại học, cao đẳng để tiếp nhận các sinh viên giỏi sau khi tốt nghiệp và thực hiện hỗ trợ học phí cho những sinh viên này. Các trường phải dạy xen kẽ chương trình đào tạo kỹ năng làm việc, tác phong công nghiệp, ngoại ngữ, tin học, chính sách pháp luật hiện hành cho sinh viên…Tuy nhiên, doanh nghiệp sẽ có khó khăn bước đầu khi kinh nghiệm quản lý, điều hành, làm việc của họ chưa có. Nhưng về tương lai, doanh nghiệp sẽ đón nhận được lực lượng lao động có chất lượng thực sự. Đây cũng là mô hình có thể coi là hiệu quả về chất lượng nguồn lao động hiện nay.

- Thường xuyên có kế hoạch đào tạo, sử dụng lao động để thông tin đến nhân dân, người lao động được biết để họ có kế hoạch tự đào tạo, phấn đấu.

- Mạnh dạn đầu tư cho đào tạo để trao đổi nhân lực với các đối tác trong, ngoài nước.

- Có chiến lược, lộ trình bổ sung, thay thế, chuẩn mực nguồn lao động với những tiêu chí cụ thể.

- Đầu tư, tham gia đầu tư cùng với Nhà nước, Chủ hạ tầng KCN xây dựng các công trình phúc lợi công cộng: nhà ở công nhân, nhà trẻ, trường học, bệnh viện, nhà văn hoá, khu thể thao, chợ….phục vụ hoạt động và đời sống người lao động.

- Chấp hành tốt các quy định của nhà nước về pháp luật lao động; tạo mối quan hệ thân thiện, hài hoà với người lao động.

2 - Sự tham gia, liên kết của nhà trường, cơ sở đào tạo với doanh nghiệp:

Các trường đại học, cao đẳng, cơ sở đào tạo, trường nghề…hiện nay chủ yếu đào tạo chuyên ngành đã xây dựng từ trước, có những ngành không còn phù hợp với nhu cầu của doanh nghiệp, người học và xã hội. Có trường đào tạo chuyên môn là chủ yếu nên khi sinh viên tốt nghiệp vẫn không thể tiếp cận công việc một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất. Vì vậy, hiện tượng “thừa thầy, thiếu thợ” đã xảy ra. Mặt khác, những học sinh có học lực trung bình (thậm chí khá) không có ý chí thi đại học hoặc cao đẳng nên họ có nguyện vọng đi làm việc bằng con đường nhanh nhất – là lực lượng lao động phổ thông. Họ không đủ kiên trì và kinh phí để theo học một khoá chính quy 12 – 24 tháng hoặc dài hơn nữa trong điều kiện phải tự túc. Như vậy, muốn có một nguồn lao động có kỹ năng nghề cao, phong phú và đa dạng để có thể đáp ứng với yêu cầu của DN không phải là dễ, bản thân nhà trường hay cơ sở đào tạo không thể một mình làm nổi, mà phải trông cậy vào sự gắn kết giữa nhà trường – doanh nghiệp để có “sản phẩm đầu ra” có chất lượng, hiệu quả tốt. Sự gắn kết này nếu được thiết lập đồng bộ sẽ đem lại lợi ích to lớn cho cả hai phía. Nhà trường sẽ thực hiện được định hướng học viên trong đào tạo, có điều kiện nhanh chóng tiếp thu công nghệ mới vào đào tạo, nâng chất lượng "đầu ra" và tăng sức hấp dẫn "đầu vào" khi học sinh tốt nghiệp. Doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng lao động thì khắc phục được tình trạng tuyển lao động theo kiểu “tạm thời”, không đáp ứng được yêu cầu cả số lượng và chất lượng, khắc phục được tình trạng mất cơ hội, thị phần và uy tín.

 

3 – Vai trò của chính quyền các cấp:

- UBND tỉnh :

+ Chỉ đạo và giao nhiệm vụ thành lập một cơ quan chuyên chăm lo phát triển nguồn lao động giữa Sở Lao động Thương binh Xã hội, Sở Giáo dục và Đào tạo, UBND các huyện, thành phố, thị xã…,đặc biệt là việc đào tạo định hướng cho học sinh phổ thông trung học.

+ Quyết định cơ chế và theo dõi, chỉ đạo sự gắn kết giữa doanh nghiệp – nhà trường - người lao động đi đúng hướng, hiệu quả. Hỗ trợ kinh phí bằng nhiều hình  thức cho 3 đối tượng trên để thực hiện tốt quá trình đào tạo nguồn lao động, phấn đấu lao động có trình độ cao trong các KCN cố gắng được khoảng 50%/tổng số lao động vào năm 2015 - 2020, phục vụ mục tiêu xây dựng các KCN Bắc Ninh phát triển bền vững trên tất cả các lĩnh vực.

+ Cải thiện các thủ tục hành chính để tạo cơ chế “minh bạch, thông thoáng”; nâng cao thứ hạng trong Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh với các tỉnh, thành.

+ Có chiến lược, kế hoạch, bố trí hoặc hỗ trợ kinh phí xây dựng và phát triển hạ tầng xã hội như trường học, bệnh viện, nhà ở, nhu cầu về dịch vụ văn hoá, thể thao, xã hội, góp phần bảo đảm cuộc sống của người lao động, ổn định an sinh xã hội.

+ Chỉ đạo các cơ quan chuyên môn thường xuyên thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chính sách pháp luật về lao động. Khen thưởng, xử lý kịp thời các tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện đào tạo, sử dụng nguồn lao động, chính sách pháp luật về lao động.

- UBND các huyện, thành phố, thị xã, xã, phường, thị trấn:

+ Tạo điều kiện mọi mặt cho con em, nhân dân được học tập văn hoá, học nghề.

+ Theo dõi, gắn kết với các doanh nghiệp đóng trên địa bàn để thúc đẩy đào tạo cho con em ở địa phương.

+ Phối hợp, xử lý, giải quyết các vấn đề môi trường, an sinh xã hội cho người lao động.

4 - Bản thân người lao động

+ Phải cố gắng, tiếp thu và trau dồi kiến thức một cách có hiệu quả, có chất lượng. Chỉ có tay nghề cao, kỷ luật lao động tốt thì chúng ta mới có việc làm ổn định, thu nhập cao, đời sống được nâng lên, chất lượng cuộc sống ngày càng tốt hơn, góp phần vào sự phát triển chung của đất nước.

+ Rèn luyện ý thức chấp hành nghiêm pháp luật, ý thức tổ chức kỷ luật, lối sống văn hoá, ý thức cộng đồng để sớm làm chủ chính mình và góp phần xây dựng doanh nghiệp phát triển./

Hoàng Thị Thu Hải - Phòng Quản Lý lao động
Top
Advertisment
Business connection
Văn bản, chính sách mới Tiếng Anh Hỗ trợ thông tin đất-xưởng Doanh nghiệp trong các KCN Bắc Ninh-Enterprises in Bac Ninh Industrial Parks Chứng chỉ Sở Xây dựng Tiếng Anh CERTIFICATE OF CAPACITY OF CONSTRUCTION CERTIFICATE OF ELIGIBILITY FOR LABOR SAFETY AND HYGIENE TRAINING ACTIVITIES
Rate exchange