ThS. Vũ Đức Quyết-Trưởng ban Ban quản lý các KCN Bắc Ninh
Bắc Ninh là tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Hồng, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc; diện tích 822km2, dân số trên 1 triệu người với gần 600.000 lao động. Bắc Ninh cũng là tỉnh có nhiều điều kiện thuận lợi về hạ tầng kỹ thuật để phát triển mạnh công nghiệp. Cùng với các yếu tố nội tại như lao động, truyền thống, văn hoá, lịch sử… đã hợp thành nguồn lực quan trọng để nâng cao sức cạnh tranh cho các doanh nghiệp.
Mục tiêu của tỉnh là: Phấn đ?u đến năm 2015 cơ bản trở thành tỉnh kinh tế công nghiệp, tạo tiền đề đến năm 2020 là một trong những tỉnh dẫn đầu vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Vì vậy, chủ trương tập trung đầu tư xây dựng và phát triển các KCN được xác định là giải pháp quan trọng hàng đầu.
Thực tiễn xây dựng và phát triển các KCN, Bắc Ninh đ?c biệt coi trọng công tác xúc tiến, thu hút đ?u tư; xác định là nhiệm vụ trọng tâm quyết định sự thành công của mỗi KCN. Do vậy, công tác xúc tiến, thu hút đầu tư không chỉ dừng lại ở việc mời gọi nhà đầu tư theo định hướng, quy hoạch phát triển các KCN mà còn được hỗ trợ, thúc đẩy hoạt động triển khai dự án và mở rộng dự án sau cấp phép đầu tư.
Công tác xúc tiến, thu hút đầu tư đư?c xác định ngay từ công tác quy hoạch các KCN, là bước cụ thể hoá chủ trương về phát triển KCN, đồng thời hội tụ những lợi thế để biến thành nguồn lực xây dựng các KCN. Đến nay Bắc Ninh đã hoàn thiện quy hoạch phát triển các KCN đến năm 2015, định hướng đ?n năm 2020 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt với 15 KCN, tổng diện tích 7.525ha (KCN 6.541ha và Khu đô thị 984ha), trong đó: 04 KCN đã đi vào hoạt động (Tiên Sơn, Quế Võ I, Đại Đồng - Hoàn Sơn, Yên Phong I); 03 KCN mới khởi công xây dựng (VSIP, Quế Võ II, IGS); 03 KCN đã được phê duyệt quy hoạch chi tiết, đang chuẩn bị khởi công (Thuận Thành II, Yên Phong II, Quế Võ III).
Việc hoàn thiện quy hoạch phát triển các KCN đến năm 2015, định hướng đến năm 2020 đã góp phần vào việc phân bố, điều chỉnh lại không gian kinh tế - xã hội của tỉnh, thể hiện rõ nhất là thúc đẩy phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng như: Điện, nước, giao thông vận tải... và tạo sự phát triển đồng đều, hỗ trợ lẫn nhau giữa khu vực phía Bắc sông Đuống (phát triển công nghiệp và dịch vụ) và phía Nam sông Đuống (phát triển nông nghiệp theo hướng hàng hoá cao sản).
Sau quy hoạch là ưu tiên đầu tư xây dựng hạ tầng các KCN. Với giải pháp đa dạng hoá các hình thức đầu tư xây dựng hạ tầng KCN:
- Lựa chọn và ưu tiên doanh nghiệp có năng lực, kinh nghiệm, có khả năng làm tốt công tác tiếp cận và đàm phán với các nhà đầu tư lớn.
- Đến nay đã chấp thuận 15 chủ đầu tư xây dựng hạ tầng (10 doanh nghiệp là nhà đầu tư trong nước; 05 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài), trong đó 10 dự án đầu tư hạ tầng đã đư?c cấp phép với tổng vốn 494,2 triệu USD. Đặc biệt đã thu hút được một số dự án đầu tư hạ tầng KCN lớn như: VSIP Bắc Ninh (Singapore), Tập đoàn IGS (Hàn Quốc), Foxconn (Honghai), NICE (Đài Loan)...
- Đã chuyển hướng xúc tiến đầu tư theo chuỗi (các tập đoàn lớn và cụm các nhà đầu tư kinh doanh hạ tầng KCN) để kéo theo nhiều nhà đầu tư thứ cấp khác tạo giá trị gia tăng cao, thay thế hình thức xúc tiến đơn lẻ trước đây.
- Đã thiết lập mô hình KCN gắn với đô thị, đó là: KCN, đô thị Yên Phong I; KCN, đô thị Quế Võ II; KCN, đô thị VSIP Bắc Ninh; KCN, đô thị Nam Sơn - Hạp Lĩnh nhằm phát huy lợi thế, tạo hình ảnh và diện mạo KCN hiện đại. Riêng KCN, đô thị VSIP Bắc Ninh đã thiết lập mô hình kinh doanh hạ tầng trong hạ tầng KCN (Mapletree Singapore). Với mô hình đó góp phần hình thành chuỗi không gian kinh tế, đô thị trên địa bàn tỉnh và kết nối với vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và vùng thủ đô Hà Nội.
Cùng với nỗ lực thu hút, lựa chọn nhà đầu tư kinh doanh hạ tầng KCN, công tác xúc tiến, thu hút nhà đầu tư thứ cấp có bước phát triển vượt bậc cả về hình thức, quy mô và chất lượng dự án. Tính đến nay thu hút được 345 dự án SXKD với tổng vốn đăng ký 2,81 tỷ USD, đạt 3,11 triệu USD/ha và 8,15 triệu USD/dự án. Việc xắp xếp các nhà đầu tư cũng được coi trọng, mỗi KCN được bố trí một vài tập đoàn đầu tư có quy mô đầu tư lớn, công nghệ kỹ thuật cao, thương hiệu khu vực và toàn cầu để kéo theo chuỗi các nhà đầu tư vệ tinh khác, tạo lập KCN chuyên ngành và xây dựng hình ảnh, thương hiệu cho KCN. Đã có 15 quốc gia, quốc tịch đầu tư vào Bắc Ninh, các dự án FDI lớn gần đây chủ yếu đầu tư vào lĩnh vực điện, điện tử, viễn thông công nghệ cao của các tập đoàn đa quốc gia như: Canon (Nhật Bản), Samsung (Hàn Quốc), Foxconn (Đài Loan), ABB (Thuỵ Điển)... đã tạo ra hình ảnh sinh động của các KCN Bắc Ninh. Đồng thời là cơ sở để Bắc Ninh xác lập ngành công nghiệp mũi nhọn trong thời gian tới, mà trọng tâm là ngành công nghiệp điện tử, cơ khí chính xác, vật liệu mới, chế biến công nghệ cao.
Công tác xúc tiến, thu hút đầu tư còn được tính toán, điều chỉnh hợp lý giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài đảm bảo sự hỗ trợ, tương tác, thúc đẩy phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững các KCN. Trong tổng số các dự án SXKD được cấp phép có 200 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đăng ký 790,6 triệu USD, chiếm 58% số dự án và 28,1% vốn đăng ký; 145 dự án đầu tư nước ngoài với tổng vốn đăng ký 2,02 tỷ USD, chiếm 42% số dự án và 71,9% vốn đăng ký. Các dự án đầu tư trong nước tập trung chủ yếu giai đoạn đầu khởi công xây dựng các KCN, quy mô vừa và nhỏ vào các lĩnh vực chế biến lương thực, thực phẩm... góp phần giải quyết các vấn đề về an sinh xã hội và tiền đề thu hút dự án FDI giai đoạn sau. Thực tiễn đã chứng minh, trong bối cảnh suy thoái kinh tế thế giới ảnh hưởng đến Việt Nam, các doanh nghiệp trong KCN Bắc Ninh vẫn trụ vững. Các dự án đầu tư trong nước vào lĩnh vực chế biến lương thực, thực phẩm tiêu thụ tại thị trường trong nước vẫn đứng vững và đều tăng sản lượng đã bổ trợ việc làm cho các dự án FDI vào lĩnh vực điện tử gặp nhiều khó khăn trong đ?u ra dẫn đến cắt giảm nhân công hoặc tạm ngừng sản xuất để cơ cấu lại sản phẩm, điều chỉnh thị phần. Làm cho các KCN Bắc Ninh luôn ổn định, phát triển, an ninh trật tự xã hội trong và ngoài vùng phụ cận KCN được giữ vững.
Kết quả trên đã khẳng định định hướng, giải pháp thu hút đầu tư vào các KCN của Bắc Ninh là hoàn toàn đúng đắn. Tính đến 31/12/2008 đã có 155 dự án đi vào hoạt động đóng góp trên 50% tổng giá trị SXCN và trên 70% giá trị xuất khẩu toàn tỉnh, giải quyết việc làm cho trên 33.000 lao động (61,1% lao động địa phương); góp phần quan trọng duy trì tăng trưởng kinh tế nhanh, liên tục trên hai con số (16,2% năm 2008); cơ cấu kinh tế chuyển dịch nhanh, theo hướng tích cực trong từng khu vực, từng địa phương và các thành phần kinh tế: Tỷ trọng khu vực nông nghiệp giảm từ 38% năm 2000 xuống 15,3% năm 2008, tỷ trọng khu vực công nghiệp - dịch vụ tăng từ 62% lên 84,7% năm 2008.
Từ thực tiễn công tác xúc tiến, thu hút đầu tư vào các KCN Bắc Ninh có thể rút ra bài học kinh nghiệm cho các địa phương khác trong công tác xúc tiến, thu hút đầu tư vào các KCN như sau:
- Công tác quy hoạch phát triển các KCN cần đi trước một bước và ổn định lâu dài.
- Lựa chọn mô hình phát triển các KCN phù hợp với điều kiện, đặc điểm của từng địa phương nhằm phát huy lợi thế và xây dựng hình ảnh, thương hiệu cho các KCN; Đa dạng hoá các hình thức đầu tư xây dựng hạ tầng KCN.
- Thu hút đầu tư nên tập trung tạo những ngành công nghiệp mũi nhọn.
- Thu hút đầu tư phải đ?m bảo hợp lý giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài.
Để tiếp tục thu hút đầu tư vào các KCN trong thời gian tới, thông qua diễn đàn này, tỉnh Bắc Ninh gửi thông điệp tới các nhà đầu tư:
- Tiếp tục mời gọi doanh nghiệp có năng lực quan tâm đến dự án xây dựng hạ tầng kỹ thuật các KCN, đô thị; Ưu tiên phát triển giao thông vận tải, cấp nước, xử lý môi trường, công nghệ thông tin.
- Các dự án sản xuất kinh doanh: Ưu tiên thu hút dự án đầu tư lớn vào các ngành có công nghệ cao, công nghệ nguồn, gia tăng xuất khẩu; xác định những dự án ưu tiên thu hút đầu tư theo hướng tạo lập ngành công nghiệp mũi nhọn với một số nhà sản xuất chính có thương hiệu khu vực và toàn cầu, thiết lập hệ thống công nghiệp phụ trợ, trước hết là công nghiệp điện tử, cơ khí chính xác, sau là vật liệu mới, chế biến công nghệ cao.
- Tham gia chương trình đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực nhất là lao động có trình độ kỹ thuật cao với mô hình Trường – Nhà đầu tư – Nhà nước.
- Triển khai chủ trương xây dựng nhà ở cho người lao động trong các KCN, vừa tạo việc làm mới, vừa hỗ trợ đảm bảo đời sống cho người lao động.
- Tham gia dịch vụ hỗ trợ nhằm ổn định an sinh xã hội, đảm bảo cuộc sống cho người lao động cả hai khu vực nông nghiệp nông thôn và người lao động trong các KCN.
Với tất cả các nhà đầu tư, chúng tôi cam kết tạo điều kiện thuận lợi, tư vấn, hỗ trợ và đồng hành cùng doanh nghiệp suốt vòng đời dự án với phương châm: Thành công của các bạn là thành công của chúng tôi!